Tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 11/2024 diễn ra chiều 7/12, đại diện lãnh đạo các bộ, ngành đã giải đáp, làm rõ nhiều câu hỏi liên quan đến những lĩnh vực, vấn đề được báo chí, dư luận quan tâm.
Tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 11/2024 diễn ra chiều 7/12, đại diện lãnh đạo các bộ, ngành đã giải đáp, làm rõ nhiều câu hỏi liên quan đến những lĩnh vực, vấn đề được báo chí, dư luận quan tâm.
Đối với kết quả, có 4 nguyên nhân chủ yếu: (i) tổng GDP tăng ngay cả khi đại dịch covid-19 xuất hiện (năm 2020) và bùng phát (năm 2021), nhưng GDP vẫn là một trong số ít nền kinh tế tăng trưởng dương và năm 2023 nằm trong TOP ít nền kinh tế tăng cao nhất; (ii) dân số tăng chậm lại, tỷ lệ tăng tự nhiên năm 2023 chỉ còn 0,84%; (iii) tỷ giá VND/USD cơ bản ổn định, nhờ có nguồn ngoại tệ vào lớn (từ đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ xuất siêu, từ kiều hối,…), từ sự điều hành tỷ giá trung tâm hay tiền gửi ngoại tệ có lãi suất bằng 0%, có nguồn dự trữ ngoại tệ vượt 3 tháng nhập khẩu theo thông lệ,… áp lực găm giữ ngoại tệ trên thị trường giảm; (iv) tài khóa, tiền tệ nới lỏng sớm so với nhiều nền kinh tế lớn...
https://vneconomy.vn/gdp-binh-quan-dau-nguoino-luc-dat-muc-tieu-de-ra.htm
Việt Nam là một trong 5 quốc gia sản xuất tôm lớn nhất thế giới (cùng với Ecuado, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia). Năm quốc gia này cung ứng 74% sản lượng tôm cho toàn cầu.
Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện diện tích nuôi tôm của cả nước đạt 737.000 ha. Sản lượng tôm thu hoạch trong 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 372 nghìn tấn (trong đó sản lượng tôm nuôi ước 329 nghìn tấn, còn lại là tôm đánh bắt trên biển), tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.
Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định 79/QĐ-TTg ngày 18/1/2018 đề ra mục tiêu đến năm 2025, tổng diện tích nuôi tôm cả nước sẽ đạt 750 nghìn ha, sản lượng đạt trên 1 triệu tấn, giá trị xuất khẩu tôm đạt 10 tỷ USD.
Diện tích nuôi tôm của Việt Nam đã tăng từ mức 644 nghìn ha năm 2012 lên 737 nghìn ha năm 2022; sản lượng tôm thu hoạch từ mức 463 nghìn tấn năm 2012 lên 1 triệu tấn năm 2022. Nhìn tổng thể, ngành nuôi tôm đã đạt được mục tiêu về diện tích và sản lượng. Thế nhưng giá trị xuất khẩu tôm gần như “dậm chân tại chỗ” từ năm 2018 đến nay.
Cụ thể: năm 2017 đạt 3,7 tỷ USD; năm 2018 là 3,55 tỷ USD; năm 2019 là 3,38 tỷ USD; năm 2020 là 3,69 tỷ USD; năm 2021 đạt 3,88 tỷ USD. Năm 2022, xuất khẩu tôm lập kỷ lục với 4,3 tỷ USD. Tuy nhiên đến năm 2023, xuất khâu tôm chỉ còn 3,38 tỷ USD, giảm 21,7% so với năm 2022. Năm 2024, ngành tôm phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 4 - 4,3 tỷ USD. Với tốc độ tăng trưởng này, có thể nói mục tiêu xuất khẩu 10 tỷ USD của ngành tôm là bất khả thi.
Lý giải nguyên nhân, TS. Hồ Quốc Lực, nguyên Chủ tịch VASEP, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty FIMEX, cho biết giá xuất khẩu tôm bình quân hiện nay chỉ bằng 2/3 so với cách đây 5 năm. Đồng thời, xung đột địa chính trị, suy thoái kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến sức tiêu thụ mặt hàng tôm, trong khi đó chi phí vận chuyển và giá đầu vào tăng mạnh, tất cả đã khiến ngành tôm bị ảnh hưởng.
Đồng bằng sông Cửu Long là thủ phủ nghề nuôi tôm của Việt Nam, diện tích nuôi tôm đạt hơn 700.000 ha, chiếm trên 90% về diện tích nuôi tôm của cả nước. Cà Mau và Bạc Liêu là hai tỉnh nuôi tôm lớn nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Bạc Liêu có 143.000 ha diện tích nuôi tôm, sản lượng 257.000 tấn năm 2023. Cà Mau có tích nuôi tôm gần 280.000 ha, chiếm 45% diện tích nuôi tôm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2023, sản lượng tôm nuôi của Cà Mau đạt 233.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 1,2 tỷ USD.
Ngày 25/5/2024, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau Huỳnh Quốc Việt đã ký quyết định phê duyệt phương án phát triển ngành tôm tỉnh Cà Mau thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Dự kiến nguồn vốn đầu tư phát triển ngành tôm tỉnh Cà Mau đến năm 2030 khoảng 20.000 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách 4.050 tỷ đồng, còn lại là vốn từ các thành phần kinh tế khác.
Mục tiêu đến năm 2030, Cà Mau giữ ổn định diện tích nuôi tôm đạt 280.000 ha. Trong đó nuôi tôm siêu thâm canh đạt 8.000 ha, thâm canh 1.700 ha, quảng canh cải tiến 240.000 ha, quảng canh 30.300 ha. Phát triển hai khu phức hợp thủy sản ở hai huyện Năm Căn và Đầm Dơi.
Mục tiêu đến năm 2030, tổng sản lượng tôm nuôi của Cà Mau đạt 350.000 tấn, giá trị xuất khẩu đạt 1,65 tỷ USD. Nâng cao năng lực chế biến cho các nhà máy thủy sản. Chuyển đổi cơ cấu các sản phẩm chế biến xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu giá trị gia tăng lên 80%, giảm tỷ trọng sản phẩm sơ chế xuất khẩu xuống dưới 20%...
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 23-2024, phát hành ngày 03/6/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
GDP bình quân đầu người là chỉ tiêu rất quan trọng, không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế, mà còn là tiền đề của thu nhập, mức sống, so sánh quốc tế, phân nhóm nước theo mức thu nhập (thấp, trung bình, cao),…
Vào năm 1988, Việt Nam chỉ đạt dưới 100 USD/người, nằm trong nhóm mấy nước có mức GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Tính chung, GDP bình quân đầu người trước năm 2008 ở mức dưới 1.000 USD và Việt Nam thuộc nhóm nước và vùng lãnh thổ có thu nhập thấp nhất.
Từ năm 2008, GDP bình quân đầu người tính bằng USD của Việt Nam đã vượt mốc 1.000 USD, chuyển từ nhóm nước và vùng lãnh thổ có thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp). Đây là một sự chuyển dịch vị thế, có tầm quan trọng hàng đầu của Việt Nam, tạo điều kiện cho việc chuyển dịch vị thế trên nhiều lĩnh vực khác (như gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - WTO ).
Hiện trạng về GDP bình quân đầu người của Việt Nam biểu hiện ở một số chỉ tiêu chủ yếu. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá VND/USD hối đoái (nay được tính theo tỷ giá trung tâm) trong giai đoạn 2010-2023 liên tục tăng lên, năm 2010 chỉ đạt 1.614 USD/người thì đến năm 2023 đã đạt mức 4.284 USD/người (hình 1). Đây là một trong những căn cứ để Việt Nam đề ra mục tiêu Việt Nam sẽ ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ có thu nhập trung bình (thấp) vào năm 2025.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (PPP) thể hiện ở hình 2.
Theo đó, nếu tính bằng USD theo tỷ giá PPP, thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã gần như liên tục tăng lên qua các năm và có thứ bậc cao hơn so với thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái so với những nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (Bảng 1)
Khả năng năm 2023 Việt Nam sẽ có thứ bậc cao hơn, điều đó chứng tỏ USD tại Việt Nam có giá cao hơn hay có sức mua cao hơn tại Hoa Kỳ và một số nước và vùng lãnh thổ khác ở Đông Nam Á, Châu Á và trên thế giới. Trạng thái đó góp phần làm cho hàng hóa xuất khẩu tại Việt Nam rẻ và hấp dẫn đối với các nền kinh tế Âu - Mỹ, giữ vị thế xuất siêu lớn với các thị trường này, trong khi lại nhập siêu lớn với nhiều thị trường, nhất là các thị trường châu Á, đặc biệt là Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan (TQ), Thái Lan, Singapore, Malaysia,….
GDP bình quân đầu người cao lên đã góp phần làm cho tổng GDP của Việt Nam tính bằng USD có quy mô cao lên qua các năm (hình 3)
Theo đó, Việt Nam không những là nước có dân số đông (đứng thứ 13 thế giới) mà đã có quy mô GDP lớn dần lên, đứng thứ bậc cao hơn trong khu vực ở châu Á và trên thế giới (bảng 2)
Ước năm 2023 thứ bậc của Việt Nam sẽ cao hơn (ước thứ 3 Đông Nam Á, thứ 10 châu Á, thứ 31 thế giới).
GDP bình quân đầu người tăng đã góp phần để phát triển nhiều chỉ tiêu về xã hội (tuổi thọ đạt 73,17, đứng thứ 5 Đông Nam Á, thứ 17 châu Á, thứ 62 thế giới, chỉ số phát triển con người năm 2021 đứng thứ 116 thế giới,…).
Bên cạnh những kết quả tích cực, về GDP bình quân đầu người Việt Nam vẫn có những hạn chế, bất cập. Dân số đứng thứ hạng cao, nhưng tổng GDP đứng thứ hạng thấp hơn, nên GDP bình quân đầu người còn bị thấp hơn nữa. Nếu có đủ thông tin của các nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và thế giới thì thứ bậc của Việt Nam còn thấp hơn nữa.
Đánh giá “nguy cơ tụt hậu xa hơn” không còn những áp lực quá lớn như trước đây, nhưng khoảng cách với thế giới và nhiều nước còn lớn. Năm 2021, GDP bình quân của thế giới đạt khoảng 46.513 tỷ USD, dân số giữa năm 2021 là 7.837,5 triệu người, tính ra GDP bình quân đầu người đạt 12.314 USD. So với con số này, con số tương ứng của Việt Nam (3.717 USD), còn cách khá xa (mới bằng gần 30,2%), nếu so với một số nước khác có mức cao hơn của thế giới (có 48 nước cao hơn, trong đó trên 50.000 USD có 16 nước, trên 60.000 USD có 9 nước, trên 70.000 USD có 5 nước gồm: Iceland 100.172 USD, Thụy Sỹ 99.992 USD, Na Uy 89.154 USD, Singapore 72.794 USD, Hoa Kỳ 70.249 USD) thì còn cách xa hơn.
Áp lực tụt hậu xa hơn tuy không còn lớn, nhưng nguy cơ “chưa giàu đã già” đang hiện hữu, khi tỷ trọng người cao tuổi /tổng dân số đã vượt quá mức 13%. Theo địa bàn, GRDP bình quân đầu người của một số địa bàn còn rất thấp, trong đó có Nam Định, Hậu Giang,..